(Bài viết: Ðặng Tất, Ðặng Dung Quốc sĩ, Anh hùng, của tác giả Hoàng Duy đăng trên báo Nhân dân, Thứ Ba, ngày 04-12-2007)

Nhân Trần Ngỗi, con vua Trần Nghệ Tông, xưng Giản Ðịnh Hoàng đế, chiêu mộ binh mã nối nghiệp nhà Trần chống quân Minh
(1-4-1407), Ðặng Tất tập hợp quân sĩ đội ngũ chỉnh tề, làm lễ tế trời đất, đánh trống, phất cờ xuất quân từ Ðại bản doanh (sông Thế Vinh) ra Nghệ An phò vua Giản Ðịnh chống giặc Minh. Vua phong ông giữ chức Quốc công, chỉ huy toàn bộ lực lượng nghĩa quân. Với sự phò tá của Ðặng Tất và đội quân “nhân nghĩa” Hóa Châu mà vùng cai quản của Giản Ðịnh nhanh chóng được mở rộng
thành một dải liên hoàn từ Hải Vân sơn đến Thanh Hóa. Thế và lực nhà Hậu Trần lúc này đã đủ mạnh, vua sai Ðặng Quốc công tổng chỉ huy nghĩa quân tiến ra bắc giải phóng Ðông Ðô.

Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: “Khi quân đi qua các xứ Trường Yên, Phúc Thanh các quân thứ cũ và các hào kiệt không ai không hưởng ứng đi theo, Tất chọn người có tài bổ cho quan chức” (1).

Khi đã chiếm được Phúc Thanh (thị xã Ninh Bình ngày nay), Ðặng Tất chủ trương tiến đánh sang tả ngạn sông Ðáy và ở đây đã đánh tan đội quân 10 vạn người do Tổng binh Mộc Thạnh chỉ huy. Ðây là trận thắng Bô Cô vang dội, được Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: “Tháng 12 năm Mậu Tý, Quốc công Ðặng Tất phá được quân Minh ở kẻ Bô Cô. Bấy giờ nhà Minh sai Tổng binh Mộc Thạnh lấy tước Kiếm quốc công mang ấn Chinh di Tướng quân, đem năm vạn quân lại từ Vân Nam đến Bô Cô. Vừa khi vua cũng từ Nghệ An đem quân đến, quân dung nghiêm chỉnh, gặp buổi nước triều lên và gió mạnh, sai các quân thủy, bộ cùng cầm cự. Vua cầm dùi đánh trống, khiến các quân thừa cơ xông ra đánh từ giờ tỵ đến giờ thân, quân Minh thua chạy. Chém được Thượng  thư binh bộ là Lưu Tuấn, Ðô đốc Lữ Nghị và quân cũ, quân mới hơn 10 vạn người, chỉ một mình Mộc Thạnh được thoát chạy lên thành Cổ Lộng” (2).

Chiến thắng Bô Cô là chiến thắng oanh liệt của vua, tôi nhà Trần đánh bại giặc Minh, gắn liền với tên tuổi vị tổng chỉ huy là Ðặng Tất, là một mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ðáng tiếc là sau chiến thắng Bô Cô đã diễn ra sự phân hóa nội bộ. Trước uy thế của Ðặng Tất, bọn nịnh thần đã xúc xiểm Giản Ðịnh ám hại Ðặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Tháng 3-1409, đoàn thuyền của Giản Ðịnh đóng ở Hoàng Giang, Giản Ðịnh cho triệu Ðặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đến thuyền ngự và bất ngờ sai tay chân giết chết hai ông. Trước hành động đó, các tướng lĩnh đã từ bỏ Giản Ðịnh, lực lượng nghĩa quân đã mau chóng tan rã.

Trước sự kiện này, vào thế kỷ 18, nhà sử học Ngô Thời Sĩ bình luận: “Tất cũng là trí tướng đấy chứ. Nếu được dùng hết mưu đồ của ông thì giặc Minh cũng phải một phen khốn đốn, quyết không dám bảo nước ta vô nhân. Tiếc thay vua Giản Ðịnh tự phá hoại bức tường thành của mình đó” (3).

Về tấm gương yêu nước và khí phách anh hùng của Ðặng Tất đã được ghi nhận trong cuốn Lịch sử Hà Tĩnh (quê hương ông):
“Ðặng Tất bị giết hại nhưng tấm lòng yêu nước và những cống hiến của ông đối với sự nghiệp đánh giặc, cứu nước vẫn được nhân dân tôn kính và sử sách ghi nhận”(4). Vua Lê Thái Tổ đã truy phong Ðặng Tất tước Ðại vương và ban tám chữ vàng “Tiết liệt cương trung –
Trung thần hiếu tử”
(1428).

Đặng Dung (1373 – 1414) là con trưởng của Ðặng Tất, ông giỏi võ nghệ và văn chương, đã từng cùng cha xông pha trận mạc, là một tướng tài chống giặc Minh trong thời Giản Ðịnh. Trước sự kiện Giản Ðịnh giết hại Ðặng Tất cha mình, Ðặng Dung bỏ vua Giản Ðịnh đem quân về Thanh Hóa rước Trần Quý Khoáng, là cháu của vua Trần Nghệ Tông vào La Sơn (Hà Tĩnh) tôn lên làm vua, hiệu Trùng Quang (1409 – 1413). Ðặng Dung được vua Trùng Quang phong chức Bình chương quốc sự. Ông đã cùng vua và các tướng lĩnh Nguyễn Cảnh
Dỵ, Nguyễn Súy, Nguyễn Biểu dựng cờ tiếp tục đánh quân Minh. Trước hết, Ðặng Dung đã tìm cách thống nhất được hai cuộc khởi nghĩa dưới danh nghĩa vua Trùng Quang. Sau đó đã tiến ra bắc đánh tan bọn xiểm nịnh, bất tài vây quanh Trần Ngỗi, đưa Trần Ngỗi về tôn làm Thái Thượng hoàng. Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng thực chất là bước phát triển của cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi.
Hành dinh của vua Trùng Quang đặt ở bờ sông Lam, thuộc xã Yên Hồ, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.

Xuất phát từ căn cứ này, quân khởi nghĩa đánh chiếm Tân Bình, Thuận Hóa, Hoan Diễn rồi tiến đánh Tây Ðô, Hàm Tử, Chương Dương, bao vây Cổ Lộng, thành Ðông Quan. Lực lượng quân khởi nghĩa phát triển nhanh chóng, thanh thế vang dội. Quân của Mộc Thạnh bại trận, nhà Minh cử Trương Phụ đem đại binh sang cứu viện.

Với 47 nghìn quân, Trương Phụ đã tổ chức phản công, càn quét với quy mô lớn. Ðặng Dung cùng vua, tôi, tướng lĩnh và nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do không cân sức, nên nghĩa quân tạm rút khỏi Hàm Tử, Hạ Hồng, về Nghệ An, Hà Tĩnh rồi vào Hóa Châu, dựa vào thế núi sông hiểm trở để chặn giặc. Trương Phụ chia quân làm hai đạo thủy, bộ đuổi theo đến Giả Cảng rơi vào ổ mai phục của nghĩa quân. Ðêm đó thuyền của Trương Phụ vừa kéo đến thì Ðặng Dung cùng nghĩa quân phục đánh. Bình chương quốc sự với thanh kiếm long tuyền nhảy lên thuyền Trương Phụ định bắt sống y nhưng không rõ mặt, lưỡi kiếm vung lên giết hết tướng tá hộ vệ, còn Trương Phụ nhảy xuống sông Giả Cảng tẩu thoát. Sáng mai Trương Phụ hoàn hồn mới nhận ra nghĩa quân ít, lực lượng mỏng, nên tổ chức phản công. Ðặng Dung phải thu quân vào rừng Thuận Hóa.
Trận đánh trên sông Ái Tử là chiến công oanh liệt trong cuộc đời binh võ của Ðặng Dung. Trận Ái Tử còn gọi là trận Thái Gia xảy ra với tương quan lực lượng không ngang sức, bất lợi cho nghĩa quân, nhưng nghĩa quân đã tiêu diệt hơn một nửa quân số của giặc, phá hủy nhiều thuyền bè, Trương Phụ suýt bỏ mạng. Do lực lượng quá ít nên sau một cuộc đọ sức quyết liệt, nghĩa quân phải rút lui. Nói về ý nghĩa của trận Ái Tử, Lịch sử Hà Tĩnh ghi: “Trận Thái Gia không cứu vãn được nguy cơ thất bại của cuộc khởi nghĩa, nhưng là một trận đánh gan góc, biểu thị tinh thần không đội trời chung với quân thù của Ðặng Dung và quân khởi nghĩa”(5).

Do sự phản bội của cha con Phạm Quý Hữu đã tiết lộ cho giặc nội tình  và nơi ẩn náu của vua Trùng Quang, Trương Phụ, Mộc Thạnh tổ chức vây hãm, càn quét khu rừng Sách Bố, Thuận Hóa, cuối năm 1413, vua Trùng Quang, Ðặng Dung, Nguyễn Súy… đều rơi vào tay giặc. Vào mùa xuân 1414, Trương Phụ cho giải bằng thuyền vua Trùng Quang và Ðặng Dung về Yên Kinh, Trung Quốc. Trên đường đi, Ðặng Dung làm bài thơ “Cảm hoài” khắc lên mạn thuyền. Ðến gần biên giới, Trùng Quang và Ðặng Dung nhảy xuống biển tuẫn tiết. Bài thơ “Cảm hoài” do một sứ thần của vua Lê Thái Tổ khi đi sứ sang nhà Minh biết, đã tìm đọc và thuộc lòng đưa về nước.

Cảm hoài

Thế sự du du, nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai: đồ điếu thành công dị
Vận khứ: anh hùng ẩm hận đa!
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.

Tấm gương trung liệt của Ðặng Tất, Ðặng Dung, hai vị anh hùng lỗi lạc của đất Lam Hồng đã được vua Lê Thánh Tông ban tặng câu đối:

“Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng”.

Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tôn vinh hai danh tướng là “Danh nhân lịch sử dân tộc”.
Nhà thờ hai ông ở xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh được xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa quốc gia”. Công lao và khí tiết Ðặng Tất, Ðặng Dung để lại cho các thế hệ con cháu đời đời ghi nhớ và nêu gương.

——————-

(1), (2): Ngô Sĩ Liên- Ðại Việt sử ký toàn thư – Hà Nội 1971- trang 259, 261.

(3): Ngô Thời Sĩ – Việt sử tiên án – NXB Thanh niên- 2001- trang 327.

(4), (5): Ðặng Duy Báu, Ðinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn – Lịch sử Hà Tĩnh – NXB Chính trị Quốc gia – 2000 – trang 157, 165.